Quản trị tài sản trí tuệ trong doanh nghiệp
Quản trị tài sản trí tuệ trong doanh nghiệp (DN) lớn hay nhỏ khi tham gia vào hoạt động sản xuất, kinh doanh hay thương mại đều liên quan đến sở hữu trí tuệ để được bảo hộ thì phải đăng ký mới được bảo hộ bao gồm
Tên thương mại (theo Luật DN còn được hiểu là tên DN đăng ký kinh doanh) được hình thành và bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp khi DN sử dụng tên của mình vào sản xuất kinh doanh mà không cần đăng ký theo cơ chế sở hữu trí tuệ.
Tiếp đến là bí mật kinh doanh (bí quyết kỹ thuật và bí mật thương mại) hầu như DN nào cũng có, vấn đề là các thông tin đó có được bảo mật bằng các biện pháp hữu hiệu hay không để được hưởng quyền sở hữu công nghiệp theo Luật Sở hữu trí tuệ.
Các đối tượng khác như sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu thì DN phải đăng ký với Nhà nước thì mới được bảo hộ. Rõ ràng việc đầu tư để tạo dựng, đăng ký, sử dụng, phát triển và bảo vệ các tài sản trí tuệ (còn được gọi là quản trị) là hết sức cần thiết đối với bất cứ một DN nào, nhất là khi các tài sản trí tuệ ngày càng trở nên quan trọng đối với mỗi nền kinh tế và DN trong xu thế hội nhập sâu rộng như hiện nay. Vấn đề đặt ra là, việc quản trị các tài sản trí tuệ được thực hiện như thế nào, làm cách nào để có hiệu quả nhất giúp nâng cao sức cạnh tranh của DN, đó là những nội dung mà DN cần quan tâm.
Việc đầu tiên của quản trị tài sản trí tuệ mà DN cần làm, đó là thống kê, đánh giá và phân loại các tài sản trí tuệ hiện có trong DN. Việc thống kê các tài sản trí tuệ cần được thực hiện dựa theo bản chất (nội hàm) và quy định của pháp luật đối với từng đối tượng. Nếu tài sản trí tuệ là các đối tượng thuộc quyền sở hữu công nghiệp thì có thể thuộc một trong hai loại sau:
loại thứ nhất gồm các đối tượng mà quyền sở hữu công nghiệp được xác lập không cần đăng ký, như tên thương mại, bí mật kinh doanh, nhãn hiệu nổi tiếng;
loại thứ hai gồm các đối tượng mà quyền sở hữu công nghiệp chỉ được xác lập thông qua đăng ký, như sáng chế, kiểu dáng công nghiệp và nhãn hiệu. Với tên thương mại và bí mật kinh doanh thì DN phải xem xét hiện trạng pháp lý của các đối tượng đó có thỏa mãn các tiêu chuẩn bảo hộ theo Luật Sở hữu trí tuệ không. Cụ thể là, xem các tên thương mại hiện có của DN có đáp ứng được tính phân biệt giữa DN với các DN khác trong cùng lĩnh vực, địa bàn kinh doanh và đã được sử dụng trên thực tế chưa. Khi thỏa mãn hai điều kiện trên đây thì tên thương mại của DN sẽ được Nhà nước bảo hộ. Còn với bí mật kinh doanh thì xem các thông tin liên quan đến bí quyết kỹ thuật ( các know – how) hay bí mật về thương mại (phương án sản xuất, kinh doanh, danh sách khách hàng…) hiện có của DN có được bảo mật không. Nếu các thông tin đó đã và đang được DN bảo mật thì sẽ được Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp.
Với các đối tượng sở hữu công nghiệp quyền được xác lập thông qua đăng ký như Đăng ký sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, đăng ký nhãn hiệu… thì DN cần xác định xem thực trạng các đối tượng đó ra sao: Hiện DN có bao nhiêu sáng chế, sáng chế nào đã đăng ký và được cấp Bằng độc quyền, sáng chế nào chưa đăng ký. Tương tự như vậy, cũng xác định xem DN có bao nhiêu nhãn hiệu, bao nhiêu kiểu dáng công nghiệp, cái nào đã đăng ký và cái nào chưa đăng ký.
Tiếp theo việc thống kê, đánh giá các đối tượng, DN cần thực hiện việc đăng ký các sáng chế, kiểu dáng công nghiệp hay nhãn hiệu nào thỏa mãn tiêu chuẩn bảo hộ nhưng nộp đơn sớm nhất (kể cả đơn của người nước ngoài). Vì vậy khi thực hiện đăng ký, DN cần phải đánh giá khả năng bảo hộ từng đối tượng. Nếu đăng ký sáng chế, thì phải xem các sáng chế đó còn mới không (chưa bộc lộ ở đâu cả), có trình độ sáng tạo không (so với trình độ hiện tại đã biết thì sáng chế đó có bước tiến mới về mặt công nghệ không) và sáng chế có khả năng áp dụng không (tính khả thi). Với kiểu dáng công nghiệp cũng tương tự như sáng chế. Còn đối với nhãn hiệu, thì có phải là những dấu hiệu (chữ, hình, hay kết hợp cả hai) do DN tự đặt, tự thiết kế ra chứ không phải đi sao chép, đánh cắp của người khác và các dấu hiệu đó có khả năng phân biệt hàng hóa, dịch vụ của DN khác. Để đánh giá về tính mới của sáng chế, kiểu dáng công nghiệp hay khả năng phân biệt của nhãn hiệu, DN có thể thực hiện việc tra cứu các thông tin liên quan tại kho dữ liệu do Cục Sở hữu trí tuệ lưu giữ, trên internet… hoặc nhờ các chuyên gia giúp đỡ. Khi các thông tin liên quan có cơ sở khẳng định rằng các đối tượng trên có khả năng bảo hộ cao thì DN hãy tiến hành đăng ký và đăng ký càng nhanh càng tốt để giành ngày sớm nhất (ngày ưu tiên); còn nếu các thông tin cho thấy khả năng đăng ký là bất lợi vì khó được bảo hộ thì không nên đăng ký vì chỉ thêm tốn tiền và mất thời gian mà thôi.
Sử dụng có hiệu quả tài sản “trí tuệ”
Khi các đối tượng sở hữu công nghiệp của DN đã được Nhà nước bảo hộ (được cấp bằng sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hay có được tên thương mại, bí mật kinh doanh đáp ứng tiêu chuẩn bảo hộ) thì DN phải tổ chức việc khai thác, sử dụng có hiệu quả các đối tượng đó nhằm bù đắp những chi phí nghiên cứu, đăng ký và rồi kiếm lời do cơ chế độc quyền mang lại. Nếu chỉ đăng ký mà không sử dụng hoặc sử dụng không có hiệu quả thì việc đăng ký các đối tượng sở hữu công nghiệp trở nên vô nghĩa, thậm chí còn lãng phí và tốn kém không đáng có. Việc sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp có thể do chính DN thực hiện hoặc ủy quyền cho DN khác tiến hành dưới hình thức li xăng (bán quyền sử dụng) nhưng phải thông qua hợp đồng bằng văn bản (hợp đồng li xăng) để tránh trường hợp người nhận chiếm đoạt luôn đối tượng dẫn đến khó đòi.
Ví dụ về li xăng, chủ sở hữu sáng chế “Lon có khuyên kéo” bản quyền sử dụng (li xăng) cho CocaCola với giá 148.000 bảng Anh/ngày. Nếu việc sử dụng không có hiệu quả thì DN có thể tiến hành bán đứt (chuyển giao quyền sở hữu) để bù đắp lại những chi phí đã bỏ ra, như P/S bán 5 triệu USD năm 1986. Tiếp đến, DN cần chủ động và phối hợp với các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền chống lại những hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp của mình, nhằm bảo vệ quyền đối với các tài sản trí tuệ được Nhà nước bảo hộ.
Để thực hiện các công đoạn nhằm quản trị tốt các tài sản trí tuệ của DN được phân tích trên đây, DN có thể tự làm trên cơ sở tổ chức Bộ phận (chuyên gia) chuyên trách về sở hữu trí tuệ nhằm chủ động quản trị, hoặc thuê các văn phòng luật sư (luật sư) thực hiện quản trị thông qua hợp đồng thuê quản trị tài sản trí tuệ mà nhiều DN trên thế giới đã triển khai có hiệu quả từ lâu.